Ngứa da mùa xuân có nguyên nhân chủ yếu là do huyết nhiệt trong cơ thể kết hợp với tà khí bên ngoài xâm nhập vào cơ thể lưu lại ở bì phu mà gây nên bệnh.
Đặc điểm và nguyên nhân gây ngứa da:
Trên da xuất hiện những nốt chẩn đỏ, nóng rát, ngứa; có thể kèm theo sốt, tâm phiền, sợ lạnh, họng khô, miệng khát, rêu lưỡi trắng hoặc vàng nhạt.
Trong trường hợp da khô thì tình trạng ngứa da hay gặp hơn. Bệnh nhẹ, nốt chẩn sẽ lui, giảm ngứa sau khi người bệnh vệ sinh da và uống nhiều nước.
Da cũng trở lên nhạy cảm hơn với môi trường khí hậu nóng quá hay lạnh quá, bệnh tiến triển nặng và ngứa nhiều hơn. Mặt khác, khí huyết kém, mạch m.áu đi nuôi cơ thể lưu thông yếu cũng gây ra ngứa da.
Mạch m.áu đi nuôi cơ thể lưu thông yếu cũng gây ra ngứa da.
Phép chữa ngứa da mùa xuân hạ cần dưỡng huyết, bổ âm, trừ phong, nhuận táo.
Có thể sử dụng một trong số bài thuốc sau:
Bài 1: Kim ngân hoa 12g, phù bình 8g. Sắc nước uống ngày 1 thang.
Bài 2: Vỏ núc nác 12g, kim ngân hoa 12g, lá đơn đỏ 8g. Sắc nước uống ngày 1 thang.
Bài 3: Tiên mao căn 30g, kim ngân hoa 12g, cam thảo 8g. Sắc nước uống trong ngày
Bài 4: Vỏ bí đao 24g, tang diệp12g, Sắc nước uống như trà.
Bài 5: Cúc hoa 12g, kim ngân hoa 12g, tang diệp 12g, xích thược 12g, đan bì 8g, trúc diệp 6g, bạc hà 6g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.
Kim ngân hoa, vị thuốc điều trị mẩn ngứa
Bài 6: Hòe hoa 24g, sinh địa 24g, thạch cao 20g, thổ phục linh 16g, kim ngân hoa 16g, ké đầu ngựa 16g, hy thiêm 16g, cây cứt lợn 12g, cam thảo đất 16g, Sắc uống ngày một thang.
Bài 7: Đương quy 12g, sinh địa 12g, bồ công anh 16g, xích thược 16g, kinh giới 10g, xuyên khung 8g, thiền thoái 6g, vỏ núc nác 12g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
Các bài thuốc trên, có thể sử dụng mỗi liệu trình là 7-10 ngày giúp bệnh ổn định, phòng ngừa tái phát. Trong những trường hợp bệnh tiến triển nặng, ngứa nhiều, ngứa toàn thân; phát ban kèm với sốt hoặc phát ban không kèm sốt nhưng có tổn thương ngoài da dễ gây bội nhiễm…người bệnh cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn và điều trị hiệu quả, an toàn.
Mày đay ở t.rẻ e.m cần xử trí ra sao?
Mày đay là một tình trạng da phổ biến, gặp ở mọi lứa t.uổi, trong đó có t.rẻ e.m. Đây cũng là biểu hiện thường gặp của bệnh nhân tại các phòng cấp cứu, phòng khám da liễu, phòng khám dị ứng.
Khi t.rẻ e.m bị mày đay cần xử trí thế nào?
Một số tác nhân làm may đay phát triển
Đặc trưng của mày đay là diễn tiến nhanh. Mày đay là một phản ứng viêm da với cơ chế phức tạp xoay quanh chất trung gian chủ yếu là histamine, diễn ra sau khi cơ thể tiếp xúc với yếu tố thúc đẩy.
Một số tác nhân thúc đẩy mày đay bộc phát, trong đó có thể kể đến các yếu tố sau:
– Yếu tố tiếp xúc các chất có nguồn gốc động vật hoặc thực vật: Sâu, sứa, nhện, côn trùng, phấn hoa, bụi cỏ, bụi từ môi trường…
– Yếu tố vật lý:
Mày đay do lạnh: Xảy ra sau khi tiếp xúc với lạnh (không khí lạnh, tắm lạnh…)
Mày đay do nóng: Xảy ra sau khi tiếp xúc ánh sáng mặt trời, tia cực tím, tia xạ, nguồn nhiệt…
– Yếu tố cơ học: Sức ép (mặc quần áo chật), chà xát là các yếu tố thuận lợi khởi đầu mày đay.
– Thức ăn: Là tác nhân thường hay gặp. Các loại thức ăn có thể là: Hải sản (tôm, của, sứa, ghẹ…), trứng, bò, thịt, sữa…
– Thuốc và hóa chất: Các thuốc có khả năng gây dị ứng tùy cơ địa mỗi người khác nhau, hay gặp như kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, vaccine… các loại hóa chất như chất tẩy rửa, chất sát khuẩn…
– Tác nhân tâm lý: Sang chấn tâm lý, xúc động mạnh.
– Tác nhân gây nhiễm: Ký sinh trùng (ghẻ, giun sán, amib…), n.hiễm t.rùng hô hấp trên (tai mũi họng, răng hàm mặt…)
Ngoài ra, một số bệnh lý hệ thống: Bạch cầu cấp, suy giảm miễn dịch mắc phải, bệnh mô liên kết… cũng có thể là yếu tố khiến trẻ mắc mày đay.
Nổi mề đay do nhiều nguyên nhân gây ra và chủ yếu là do các tác nhân từ bên ngoài.
Biểu hiện mày đay ở trẻ
Khi trẻ mắc mày đay sẽ có biểu hiện sẩn phù hoặc mảng hồng ban phù nề, bờ tròn hay giới hạn không đều, kích thước thay đổi từ vài mm đến 10 – 20cm hoặc lớn hơn, màu hồng, nếu sang thương lan rộng ra ngoại vi thì trung tâm có màu trắng, sờ căng. Ngứa nhiều, ngứa thường trước phát ban và lan tỏa ra cả ngoài vùng phát ban. Theo thời gian khỏi bệnh, lâm sàng có thể chia 2 loại là mày đay cấp và mày đay mạn tính.
– Nếu tình trạng cấp, nghĩa là mày đay xuất hiện dưới 6 tuần. Trong các trường hợp mày đay cấp tính, quan trọng nhất phải loại trừ các giai đoạn nặng của phản vệ (từ phản vệ độ 2 trở lên).
Trong mày đay cấp tính khoảng 50% mày đay cấp có yếu tố thúc đầy. Các yếu tố thúc đẩy thường gặp là n.hiễm t.rùng hô hấp trên (40%), phản ứng thuốc (9,2%) và do thức ăn (0,9%); còn lại khoảng 50% là mày đay vô căn.
– Nếu tình trạng mạn tính, có khoảng 50% mày đay vô căn, còn lại có yếu tố thúc đẩy chiếm 25%, liên quan bệnh tự miễn chiếm 20%, liên quan bệnh n.hiễm t.rùng chiếm 5% và giả dị ứng chiếm 5%.
Để xác định mày đay cấp tính, các bác sĩ sẽ làm một số xét nghiệm, nên làm thêm khi mày đay cấp có nguyên nhân dị ứng được nghi ngờ như phản ứng qua trung gian IgE là nghiệm pháp lẩy da và miễn dịch huỳnh quang.
Trong mày đay mạn, xét nghiệm bao quát không được khuyến cáo để đ.ánh giá mày đay mạn, vì nó hiếm khi xác định được nguyên nhân hay tác động đến sự kiểm soát bệnh lâu dài. Nên dựa vào bệnh sử – t.iền sử để xem xét xét nghiệm tìm nguyên nhân các bệnh lý tự miễn.
Điều trị mày đay ở trẻ
Điều trị theo nguyên tắc cơ bản là điều trị khi cần và liều càng thấp càng tốt, nghĩa là tăng hoặc giảm phác đồ điều trị theo diễn tiến bệnh.
Xác định và loại trừ nguyên nhân gây bệnh, tránh các yếu tố khởi phát: Để loại trừ được nguyên nhân gây bệnh cần thiết phải có chẩn đoán chính xác nguyên nhân, nhưng để xác định nguyên nhân mày đay là rất khó, vì trong đa số các trường hợp do trên 50% nguyên nhân mày đay là vô căn.
Cảm ứng dung hòa: Hiệu quả trong một số dạng mày đay như mày đay do lạnh, mày đay do ánh nắng, tia xạ…
Điều trị bằng thuốc:
Kháng histamine là thuốc chủ lực trong điều trị mày đay. Điều trị hàng đầu là kháng H1 bắt đầu ở liều thấp, nếu kém đáp ứng có thể nâng liều lên gấp 4 lần so với liều tiêu chuẩn cho đến khi có đáp ứng.
Nếu bệnh vẫn còn, có thể phối hợp kháng H2 hoặc chất đối kháng Leucotrien – Recerptor.
Có thể dùng corticoid toàn thân.
Xem xét dùng ức chế miễn dịch: Cyclosporine, Methotrexate, Dapsone, các chế phẩm sinh học (Omalizumab…).