Mặc dù Rubella không nguy hiểm, nhưng nếu không phòng ngừa, điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, đặc biệt là ở phụ nữ mang thai…
1. Các thuốc thường dùng trong điều trị rubella
Hiện vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh Rubella, biện pháp hiệu quả nhất vẫn là tiêm vaccine phòng ngừa. Ngoài ra với các trường hợp nhẹ, người bệnh chỉ cần nằm nghỉ ngơi, uống nhiều nước và dùng thuốc hạ sốt khi nhiệt độ cơ thể tăng cao. Các thuốc chủ yếu là hỗ trợ và nâng cao thể trạng.
1.1. Thuốc hạ sốt
Tác dụng: Thuốc có tác dụng hạ sốt. Với trường hợp sốt cao trên 38,5 độ C có thể dùng acetaminophen (paracetamol), liều 10-15mg/1kg cân nặng trong mỗi 4-6 tiếng. Không dùng quá 6 lần/24 tiếng.
Ngoài ra, có thể dùng ibuprofen theo chỉ định của bác sĩ hoặc khuyến cáo của nhà sản xuất đi kèm sản phẩm.
Lưu ý: Không dùng aspirin cho trẻ, vì có thể gây Hội chứng Reye, gây phù não và gan của trẻ.
Tác dụng phụ: Acetaminophen khá an toàn với liều điều trị, tuy nhiên nếu dùng quá liều thuốc có thể gây ngộ độc, làm tổn thương gan, thậm chí có thể t.ử v.ong.
Cần thận trọng khi dùng ibuprofen, đặt biệt là dùng cho trẻ. Thuốc có thể gây chán ăn, nôn, buồn nôn, xuất huyết,vàng da, khó thở, đau ngực, phát ban, tiểu ít…
Cho trẻ uống thuốc hạ sốt nếu sốt trên 38,5 độ.
1.2. Bù nước và chất điện giải
Tác dụng: Nếu bệnh nhân sốt cao, nên uống nhiều nước. Có thể uống oresol để bù nước và chất điện giải trong trường hợp sốt cao, mất nước.
Lưu ý: Cần pha oresol đúng liều lượng. Pha oresol không đúng hướng dẫn có thể khiến tình trạng bệnh nặng hơn, thậm chí gây những biến chứng thần kinh nguy hiểm. Pha quá đặc, người bệnh sẽ tăng natri m.áu do mất nước trong tế bào khiến người bệnh mệt mỏi, co giật, rối loạn tri giác, thậm chí hôn mê. Còn nếu pha quá loãng thì không đảm bảo hiệu quả.
1.3 Các thuốc khác
Có thể dùng kem bôi ngoài da nếu có biểu hiện ngứa. Tuyệt đối không dùng kháng sinh khi người bệnh không có dấu hiệu bội nhiễm. Với các trường hợp Rubella có biến chứng viêm não hoặc xuất huyết giảm tiểu cầu, cần được điều trị theo phác đồ của Bộ Y tế.
Ngoài ra, có thể bổ sung một số loại vitamin như vitamin D, vitamin C… nhằm tăng cường sức đề kháng. Bên cạnh đó, người bệnh cần được nghỉ ngơi và đảm bảo đủ dinh dưỡng để hồi phục cơ thể.
Đảm bảo đủ dinh dưỡng cho trẻ để trẻ nhanh hồi phục.
2. Lưu ý khi điều trị Rubella ở phụ nữ mang thai
Bệnh Rubella rất nguy hiểm với phụ nữ mang thai, đặc biệt là ba tháng đầu của thai kỳ. Đây là giai đoạn hình thành các bộ phận của thai nhi. Virus có thể qua hàng rào nhau thai xâm nhập vào bào thai và tác động tới quá trình phát triển của bào thai. Có khoảng một nửa số trường hợp mắc bệnh không có dấu hiệu lâm sàng điển hình nên nhiều phụ nữ có thai mắc Rubella không được phát hiện, gây ra nhiều hậu quả nặng nề về sức khỏe đối với người mẹ và thai nhi.
Nhiễm Rubella trong thời kỳ đầu mang thai có thể gây ra sảy thai, thai c.hết lưu hoặc đẻ non. Trẻ sinh ra từ các bà mẹ này có nguy cơ cao mắc hội chứng Rubella bẩm sinh với nhiều dị tật nghiêm trọng như dị tật tim, điếc, đục thủy tinh thể, chậm phát triển… Ngoài ra, trẻ có thể mắc đái tháo đường,vàng da, xuất huyết, xương thủy tinh, viêm não màng não, viêm phổi, nhẹ cân, sinh non… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe giống nòi. Một số trường hợp trẻ t.ử v.ong do hậu quả của Hội chứng này.
Hội chứng Rubella bẩm sinh có thể gặp ở 70%- 90% trẻ sinh ra từ bà mẹ bị nhiễm virus Rubella trong 3 tháng đầu mang thai.
Phụ nữ mang thai mắc Rubella cần được bác sĩ khám và tư vấn.
Do đó, việc phát hiện và điều trị kịp thời ở phụ nữ mang thai mắc Rubella là rất quan trọng. Nếu phát hiện mắc bệnh, phụ nữ mang thai cần đi khám bác sĩ để có chỉ định điều trị cụ thể.
– Với phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu: Tư vấn đình chỉ thai nghén khi đã có chẩn đoán xác định.
– Phụ nữ có thai từ 13 đến 18 tuần: Cần chọc ối để xét nghiệm chẩn đoán xác định. Tất cả các trường hợp tìm thấy rubella trong nước ối đều tư vấn đình chỉ thai, các trường hợp âm tính tiếp tục theo dõi.
– Phụ nữ có thai trên 18 tuần: Nguy cơ con bị Rubella bẩm sinh thấp, theo dõi thai kỳ bình thường.
3. Phòng bệnh Rubella
– Giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước sạch.
– Tránh đưa tay lên mắt và mũi, miệng.
– Đeo khẩu trang khi tiếp xúc hoặc chăm sóc người bệnh.
– Những người tiếp xúc gần với người bệnh Rubella nên vệ sinh đường mũi, họng, mắt hàng ngày bằng các dung dịch sát khuẩn thông thường.
– Hạn chế tiếp xúc với người mắc/nghi mắc bệnh, phụ nữ có thai tuyệt đối không tiếp xúc với người bệnh Rubella. Khi phải tiếp xúc với người bệnh phải đeo khẩu trang y tế và trang bị phòng hộ cá nhân.
– Hạn chế tập trung đông người, đặc biệt tại những phòng chật hẹp, ít thông khí ở khu vực ổ dịch.
– Không cho trẻ dùng chung vật dụng cá nhân (khăn mặt, bàn chải, kính, cốc, chén, bát đũa …), đồ chơi hoặc đồ vật dễ dính chất tiết mũi họng.
– T.rẻ e.m nhiễm Rubella bẩm sinh cần hạn chế tối đa tiếp xúc với phụ nữ có thai và t.rẻ e.m khác từ khi sinh ra đến khi trẻ được 1 t.uổi.
– Có thể phòng Rubella bằng vacccine. Hiện có loại vaccine Rubella đơn và vaccine phòng Rubella kết hợp với các loại vaccine khác như vaccine phòng bệnh sởi ở t.rẻ e.m (MR), sởi và quai bị (MMR), hoặc sởi, quai bị và thủy đậu (MMRV).
Tiêm vaccine cho trẻ từ 9 tháng t.uổi trở lên và nhắc lại khi trẻ 18 tháng t.uổi. Tiêm vaccine cho những người chưa tiêm phòng hoặc những người chưa có miễn dịch, đặc biệt cho phụ nữ ở t.uổi sinh đẻ.
– Không tiêm phòng vaccine Rubella cho phụ nữ đang mang thai. Chỉ nên có thai sau khi tiêm phòng ít nhất 1 tháng. Nếu mang thai sau khi tiêm phòng thì an toàn.
Nhiều trường hợp mắc rubella, dấu hiệu nào nhận biết bệnh sớm?
Theo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, từ đầu năm 2024 đến nay nước ta đã ghi nhận 78 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, rubella tại khu vực phía Bắc, trong đó có 10 trường hợp rubella tại 7 tỉnh, thành phố.
Cách nào giúp nhận biết sớm và phòng ngừa mắc rubella?
1. Nguyên nhân gây bệnh rubella
Virus rubella được xem là virus Paramyxo trên cơ sở dịch tễ học, do cách truyền bệnh qua niêm mạc đường hô hấp. Virus rubella chỉ có một type kháng nguyên ngưng kết hồng cầu nằm trong các gai bề mặt.
Ở người nhạy cảm:
Bị lây truyền từ những giọt nước bọt có chứa virus rubella vào đường mũi họng, nhân bản ở đường hô hấp và phân bố theo đường m.áu. Viremia (virus huyết) được phát hiện kéo dài trong 8 ngày trước đó và tồn tại 2 ngày sau phát ban. Sự đào thải virus qua họng miệng tồn tại 8 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng.
Rubella bẩm sinh:
Do sự lây truyền qua nhau thai từ người mẹ bị nhiễm sang thai nhi. Virus có thể tồn tại ở bào thai trong khi mang thai và có thể đào thải trong vòng 6 – 31 tháng sau sinh.
Rubella là một tác nhân gây dị tật bẩm sinh. Theo nhiều nghiên cứu: 80% bé bị rubella bẩm sinh nếu mẹ bị nhiễm trong 12 tuần lễ đầu mang thai. Khoảng 54% bé bị rubella bẩm sinh nếu mẹ bị nhiễm lúc thai 13 -14 tuần. Khoảng 25% bé bị rubella bẩm sinh lúc thai ở cuối tam cá nguyệt thứ 2 (tuần thứ 13 đến 26).
Biểu hiện tổn thương do Rubella.
2. Nhận biết sớm rubella
Có hai dạng: bệnh rubella mắc phải và hội chứng rubella bẩm sinh.
Đối với bệnh rubella mắc phải
Virus nhiễm vào người qua niêm mạc đường hô hấp trên, nhân lên ở biểu mô hô hấp và biểu mô hạch cổ. Thời gian ủ bệnh từ 16-18 ngày, có biểu hiện mệt mỏi, sốt nhẹ và phát ban dạng sởi cùng lúc. Đặc biệt có hạch dưới chẩm và sau tai. Ban phát ít khi kéo dài hơn 3 ngày.
Người lớn, đặc biệt là phụ nữ thường bị đau cơ thoáng qua và viêm khớp do phức hợp kháng nguyên – kháng thể. Biến chứng xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm não ít gặp.
Hội chứng rubella bẩm sinh (CRS)
Là hậu quả của tình trạng nhiễm rubella từ trong bụng mẹ được truyền qua nhau thai. Trẻ sơ sinh khi đẻ ra đã có ban hoặc trong vòng 48 giờ sau sinh, xuất hiện gan lách to, vàng da. Thể xuất huyết do giảm tiểu cầu chiếm khoảng 1/3000 trường hợp. Có thể c.hảy m.áu cam, xuất huyết tiêu hóa, c.hảy m.áu rốn ở trẻ sơ sinh.
Biện pháp hữu hiệu nhất là tiêm phòng vaccine rubella để phòng bệnh.
Diễn tiến bệnh rubella: 3 giai đoạn
– Thời kỳ ủ bệnh: 12 – 23 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn lây. Người bệnh đã nhiễm virus, chưa có biểu hiện bệnh.
– Thời kỳ phát bệnh: có 3 biểu hiện chính: sốt, phát ban, nổi hạch.
Sốt nhẹ 38 độ C, nhức đầu, mệt mỏi, đau họng, chảy mũi trong, đôi khi mắt bị đỏ, thường xuất hiện 1- 4 ngày. Sau khi phát ban thì sốt giảm.
Bệnh nhân nổi hạch ở vùng xương chẩm, bẹn, cổ, sờ hơi đau. Hạch thường nổi trước phát ban, tồn tại vài ngày sau khi ban bay hết.
Phát ban: Đây là dấu hiệu làm người ta để ý tới. ban mọc lúc đầu ở trên đầu, mặt, rồi mọc khắp toàn thân, thường không tuần tự như sởi. Nốt ban có hình tròn hay bầu dục, đường kính khoảng 1 – 2 mm, các nốt có thể hợp thành từng mảng hay đứng riêng lẻ. Trong vòng 24 giờ ban mọc khắp người.
Đau khớp: Bệnh lui thường hết sốt, ban bay nhanh không theo quy luật, không để lại dấu vết trên da, hạch trở về bình thường muộn hơn thường sau 1 tuần.
– Thời kỳ lui bệnh: Triệu chứng kéo dài 3 – 4 ngày rồi tự hết. Đau khớp có thể kéo dài lâu hơn.
3. Phòng ngừa bệnh rubella
Biện pháp hữu hiệu nhất là tiêm phòng vaccine. Đối với t.rẻ e.m tiêm phòng vaccine một mũi sau 15 tháng t.uổi, tiêm mũi 2 cách mũi một khoảng 6-10 tháng hoặc tiêm vào lúc trẻ được 4-6 t.uổi.
Phụ nữ đang ở lứa t.uổi sinh đẻ, là những phụ nữ chuẩn bị hoặc muốn có con thì thời gian tiêm là trước khi dự kiến có thai khoảng 3-4 tháng.
Chú ý: Khi đã mang thai thì chống chỉ định tiêm vaccine ngừa rubella, vì đây là loại vaccine sống giảm độc lực có khả năng truyền bệnh cho thai nhi.
Trong trường hợp đã có thai mà chưa được tiêm phòng rubella thì nên cách ly với người mắc rubella hoặc nghi mắc rubella, nhất là trong 16 tuần đầu của thai kỳ. Nếu phải đi công tác hoặc du lịch, nên hoãn chuyến đi tới những địa điểm đang có dịch rubella. Ngoài ra nên tăng cường giữ sức khỏe chung bằng cách ăn uống đủ dinh dưỡng, mặc ấm và sống trong môi trường an toàn, lành mạnh.
Nếu phụ nữ có thai không may đã mắc hoặc đã tiếp xúc với người mắc rubella, nên đi khám ngay lập tức tại chuyên khoa truyền nhiễm và chuyên khoa phụ sản. Việc đến các chuyên khoa này sẽ được bác sĩ khám, tư vấn để quyết định giữ thai hay phá thai.