Bệnh thận mạn là tình trạng suy giảm chức năng thận, có nghĩa là thận mất dần chức năng lọc các chất độc hại ra khỏi m.áu.
Bệnh thận mạn tuy nghiêm trọng nhưng nếu được điều trị tốt có thể làm chậm lại sự tiến triển của bệnh.
Tùy vào mức độ bệnh thận mạn mà chức năng thận có thể suy giảm một phần hoặc mất hoàn toàn chức năng, không thể đào thải chất độc hại và dịch thừa ra khỏi m.áu.
Bệnh thận mạn hiện nay không có biện pháp nào có thể điều trị khỏi hoàn toàn. Nhưng việc điều trị đúng có thể giúp làm chậm tiến triển của bệnh và cải thiện các triệu chứng, hạn chế nguy cơ các biến chứng.
Nguyên nhân gây bệnh thận mạn tính
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh thận mạn tính trong đó chủ yếu do các nguyên nhân sau:
– Đái tháo đường được xem là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh thận mạn ở các nước đã phát triển và đang có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam. Ngoài ra, đái tháo đường còn gây nhiều biến chứng lên các hệ cơ quan khác như tim mạch, mắt, thần kinh… Số người mắc bệnh đái tháo đường ngày càng tăng thì tỷ lệ người đái tháo đường có biến chứng thận (suy thận) ngày càng tăng cao.
Cần kiểm soát huyết áp để giảm nguy cơ biến chứng suy thận.
– Huyết áp tăng nếu không được kiểm soát, điều trị tốt sẽ gây biến chứng suy thận. Đầu tiên sẽ gây ra tiểu đạm (đạm niệu), sau đó sẽ gây ra suy thận.
– Một số thuốc có thể gây tổn thương thận, đặc biệt là khi dùng dài ngày, liều không thích hợp. Việc sử dụng các thuốc này cần được hướng dẫn, kê đơn của bác sĩ. Một số thuốc thường gặp có thể gây ngộ độc cho thận trong đó có thể kể đến thuốc kháng viêm không Steroid, kháng sinh nhóm Aminoglycoside, thuốc kháng lao, thuốc và hóa chất điều trị ung thư, thuốc cản quang, một số thuốc đông y không rõ nguồn gốc…
– Một số bệnh thận – niệu là nguyên nhân gây suy thận: Các bệnh như sỏi thận, ứ nước thận, viêm bể thận… nếu không điều trị tốt sẽ ảnh hưởng chức năng cơ quan này, dần dần gây biến chứng bệnh thận mạn. Các bệnh lý như hội chứng thận hư, viêm cầu thận không được điều trị tốt cũng sẽ gây bệnh thận mạn và cuối cùng là suy thận.
– Các bệnh thận bẩm sinh, di truyền, bệnh mạch thận như: hẹp động mạch thận, viêm mạch dị ứng, thận đa nang, thận nhiều nang đơn… cũng gây ra bệnh thận mạn tính.
Hình ảnh thận khỏe mạnh và thận mắc bệnh.
Người bệnh thận mạn tính cần làm gì?
Ngăn chặn tiến triển đến suy thận ở người bệnh thận mạn tính cần làm tốt các vấn đề sau:
– Người bệnh tuân thủ chỉ định bác sĩ
Khi mắc các bệnh lý liên quan người bệnh cần tuân thủ chỉ định của các bác sĩ về vấn đề dùng thuốc cụ thể:
Thực hiện chế độ ăn kiêng theo hướng dẫn thầy thuốc.
Không hút t.huốc l.á: gây hại cho phổi, tim, thận.
Không dùng thuốc nam không rõ nguồn gốc.
– Người bệnh thận mạn tính cần chú ý đến chế độ ăn
Chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân thận mạn tính chưa chạy thận cũng là điều cần quan tâm. Hiện tỷ lệ suy dinh dưỡng khá cao, chiếm 40% (10-70%). Do bệnh nhân chán ăn, nôn ói, kiêng khem, hạn chế quá nhiều protein… Dinh dưỡng tốt, đúng cách sẽ làm chậm tiến triển của bệnh thận mạn, giảm tỉ lệ t.ử v.ong và cải thiện chất lượng cuộc sống. Bệnh nhân cần được hướng dẫn cặn kẽ bởi chuyên viên dinh dưỡng.
Trong dinh dưỡng cho bệnh nhân suy thận chưa chạy thận cần chú ý việc bổ sung các nhóm thức ăn, vi chất dinh dưỡng như:
– Cần đảm bảo năng lượng: 35 – 45kcal/kg/ngày.
– Chất đạm: 0,8g/kg cân nặng. Một người nặng 50 kg sẽ ăn khoảng 0,8 x 50 = 40g đạm trong 1 ngày, tương đương 200 gr thịt cá hải sản… mỗi ngày. Nếu bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo sẽ được ăn 1g/kg/ngày. Hạn chế chất đạm sẽ giảm biến chứng tăng urê m.áu, làm chậm tiến triển đến suy thận mạn giai đoạn cuối. Nhưng nếu kiêng khem quá mức sẽ gây suy dinh dưỡng cũng không tốt cho bệnh nhân.
– Chất béo (Lipid): giảm dầu mỡ, da, lòng đỏ trứng, nội tạng động vật: gan, lòng… ăn ít đồ xào, nên ăn rau củ quả luộc, hấp.
– Chất bột đường (carbohydrate): 55-60% tổng năng lượng khẩu phần. Bệnh nhân tiểu đường cần hạn chế chất tinh bột.
– Vitamin và khoáng chất khác, trong đó cần bổ sung vitamin tan trong nước như Vitamin nhóm B (B1, B2), đặc biệt vitamin C.
– Cần kiểm soát huyết áp
Tăng huyết áp vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của suy thận mạn. Tăng huyết áp xuất hiện một phần là do lượng dịch tăng lên trong m.áu cũng như các mô cơ quan vì thận mất chức năng thải dịch (nước). Nếu như không được điều trị, huyết áp tăng sẽ tiếp tục hủy hoại thận cũng như dẫn tới các bệnh lý tim mạch khác.
Hầu hết bệnh nhân được kê thuốc kiểm soát huyết áp. Bác sĩ có thể sẽ kê thuốc huyết áp thuộc nhóm ức chế men chuyển (UCMC) hoặc ức chế thụ thể (UCTT). Những thuốc này không chỉ hạ huyết áp mà còn làm tăng chức năng cho thận. Nếu thuốc không hiệu quả hoặc vì một số lý do nào đó không thể dùng thuốc, các nhóm thuốc tăng huyết áp khác sẽ được kê.
– Cần kiểm soát cholesterol
Bệnh thận mạn tính là một yếu tố nguy cơ dẫn tới các bệnh lý tim mạch. Thầy thuốc có thể kê cho bệnh nhân thuốc Statin giúp làm giảm nguy cơ này. Thuốc giúp làm giảm các cholesterol xấu, khiến chúng không thể bám vào thành các mạch m.áu nên sẽ giảm thiểu các vấn đề về tắc nghẽn mạch m.áu.
Ngoài ra, nếu người bệnh có bệnh tiểu đường phải tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ chuyên khoa để giữ đường m.áu ổn định ở mức bình thường và thường xuyên kiểm tra định kỳ chất đạm trong nước tiểu.
Cần chủ động đi khám sức khỏe định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm một lần nhằm phát hiện bệnh sớm.
Các giai đoạn tiến triển suy thận mạn.
Người thừa cân béo phì dễ mắc những bệnh nào?
Tình trạng thừa cân béo phì đang gia tăng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến ngoại hình mà sẽ liên quan mật thiết với một số bệnh mạn tính.
Nguyên nhân gây thừa cân, béo phì
Béo phì là tình trạng tích tụ bất thường và quá mức khối mô mỡ và các tổ chức khác ảnh hưởng tới sức khỏe. Nó được xác định bằng chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) từ 30 trở lên.
Người có nguy cơ mắc bệnh béo phì bao gồm:
Ăn nhiều thức ăn giàu calo như đồ chiên xào, nhiều dầu mỡ, thức ăn nhanh, nước ngọt, rượu bia, nội tạng động vật, da động vật.
Người có lối sống ít vận động.
Phụ nữ sau sinh.
Di truyền.
Nhóm người mắc bệnh về rối loạn nội tiết.
Béo phì còn có thể do nguyên nhân:
Do năng lượng ăn vào cao hơn năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài
Do di truyền
Do môi trường
Các loại đồ uống có cồn như rượu bia thường chứa nhiều calo
Uống quá nhiều đồ uống có đường như nước ngọt và nước ép trái cây
Lười vận động , thiếu rèn luyện thể chất
Béo phì do nội tiết
Các bệnh người thừa cân béo phì hay mắc
Tăng huyết áp, tim mạch
Tỷ lệ mắc tăng huyết áp ở người béo phì cao hơn rất nhiều người bình thường. Bởi mô mỡ trong cơ thể người béo phì tăng nhiều, khiến lượng tuần hoàn m.áu tăng tương ứng, làm tăng lực cản ngoại vi của động mạch nhỏ, buộc tim phải làm việc nhiều, tăng nhịp đ.ập của tim để bảo đảm cung cấp m.áu cho cơ thể; lâu dần sẽ dẫn đến xơ cứng động mạch nhỏ xảy ra tăng huyết áp.
Hơn nữa, lượng natri nhất định tích tụ trong cơ thể người bệnh béo phì, càng làm tăng lượng tuần hoàn m.áu, huyết áp sẽ tăng.
Do ở người béo phì, mỡ bọc kín tim, khiến tim khó co bóp. Mỡ tích tụ quá nhiều làm tăng dung lượng m.áu tuần hoàn, làm tăng gánh nặng cho tim. Kèm theo đường huyết và mỡ trong m.áu tăng cao, làm tăng độ dính của m.áu, làm giảm khả năng tải oxy của tế bào hồng cầu, cung cấp không đủ oxy cho tế bào tim.
Không ít trường hợp béo phì, sự chuyển hóa mỡ không còn được như thường, ăn nhiều chất có nhiệt lượng cao dẫn đến chứng mỡ trong m.áu tăng cao gây ra chứng xơ cứng động mạch, tích tụ mỡ ở tế bào tim, làm dày thành tim.
Mỡ m.áu cao
Một trong những rủi ro lớn của tình trạng thừa cân là làm tăng mức độ chất béo trung tính và cholesterol xấu (LDL), giảm cholesterol tốt (HDL) trong cơ thể. Nồng độ của các thành phần mỡ trong m.áu như cholesterol, triglycerin, tổng lượng mỡ trong huyết tương vượt quá tiêu chuẩn bình thường. Điều này cho thấy việc trao đổi mỡ bị rối loạn. Mức độ LDL cao và HDL thấp là nguyên nhân chính gây ra xơ vữa động mạch làm thu hẹp các mạch m.áu dẫn đến bệnh tim mạch.
Tình trạng thừa cân béo phì đang gia tăng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến ngoại hình mà sẽ liên quan mật thiết với một số bệnh mạn tính. Ảnh minh họa.
Nguy cơ bị tiểu đường
Béo phì là một trong những nguyên nhân chính gây ra tiểu đường type 2. Béo phì khiến hormon insulin do tuyến tụy tiết ra hoạt động không hiệu quả, không thể giúp tế bào của cơ thể hấp thu đường. Lúc này, tuyến tụy sẽ cố gắng sản sinh nhiều insulin hơn. Nếu tình trạng này kéo dài, thì việc sản sinh insulin của tuyến tụy sẽ giảm và khi đó bệnh nhân dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2.
Gan nhiễm mỡ
Thừa cân, béo phì là nguyên nhân hàng đầu gây ra gan nhiễm mỡ không do rượu. Ước tính hơn 70% số người béo phì có gan bị nhiễm mỡ. Khi sự vận chuyển chất béo ở gan bị mất cân bằng, chất béo này sẽ tích tụ lại trong tế bào gan và dẫn đến gan bị nhiễm mỡ.
Tỷ lệ mắc gan nhiễm mỡ tăng theo chỉ số khối của cơ thể (BMI). Ở những người không béo phì tỷ lệ gan bị nhiễm mỡ và viêm gan nhiễm mỡ lần lượt là 15% và 3%. Những người béo phì độ I và độ II (tương ứng BMI từ 30 – 39.9 kg/m2) thì tỷ lệ này tương ứng là 5% và 20%. Đặc biệt với những người có BMI 40 kg/m 2 tỷ lệ gan bị nhiễm mỡ tương ứng là 85% và viêm gan nhiễm mỡ là 40%.
Gan nhiễm mỡ thời kỳ đầu hoặc mức độ nhẹ, vừa phần lớn có thể thay đổi, cũng tức là nói tiến hành giảm cân tích cực, điều chỉnh ăn uống, cân bằng nhu cầu thì có thể cải thiện thậm chí mất hẳn tình trạng gan nhiễm mỡ. Người bị nặng có thể xảy ra viêm gan dạng nhiễm mỡ, đau bụng khác thường hoặc biến đổi chức năng gan. Gan nhiễm mỡ giai đoạn cuối sẽ dẫn đến xơ gan do mô sợi quá nhiều.
Dễ bị đột quỵ
Khả năng dẫn đến đột quỵ ở người béo phì cao hơn nhiều lần người bình thường. Người có BMI lớn hơn 30 dễ bị t.ử v.ong do tai biến mạch m.áu não, xơ vữa động mạch. Những người béo phì mức độ thấp cũng phải cẩn trọng nếu có thêm các yếu tố nguy cơ khác (tiểu đường type 2, tăng huyết áp, rối loạn lipid m.áu) thì nguy cơ đột quỵ vẫn có thể xảy ra.
Việc trao đổi đường, mỡ trong cơ thể người béo phì trở nên khác thường làm tăng nguy cơ xơ cứng mạch m.áu não và bám dính mỡ ở thành mạch m.áu cộng thêm ảnh hưởng của tăng huyết áp đối với động lực học m.áu, dẫn đến tỉ lệ bị tắc nghẽn hoặc vỡ mạch m.áu não (đột quỵ não) ở người béo phì cao hơn người bình thường.
Ảnh hưởng xương khớp và gout
Người béo phì có khả năng phát triển bệnh gout cao gấp 4 lần so với những người có trọng lượng bình thường. Khi bị béo phì, nồng độ axit uric trong m.áu tăng dẫn đến các khớp bị đau, viêm, đỏ… mức độ bệnh gout càng nặng hơn. Khi giảm cân, nồng độ axit uric trong m.áu có thể giảm, đồng thời giảm ảnh hưởng đến bệnh gout.
Trọng lượng cơ thể tăng gây sức ép nhiều hơn lên các cơ trên cơ thể. Thừa cân thậm chí tạo sức ép lên các khớp như khớp gối, cột sống lưng và do đó tăng nguy cơ phát triển viêm xương khớp. Khi khớp sưng viêm hoặc biến dạng, hoạt động giảm, cơ thể nặng thêm, thì áp lực đối với khớp càng nặng, bệnh sẽ trở nên xấu. Vì thế người béo phì bị viêm khớp tăng sinh muốn điều trị cần bắt đầu từ việc giảm cân.
Bệnh lý đường hô hấp
Hoạt động của cơ hoành, khí phế quản của người béo phì thường hạn chế do mỡ bám nhiều, người béo phì thường bị rối loạn nhịp thở, ngáy, ngừng thở khi ngủ, béo phì càng nặng rối loạn nhịp thở càng nhiều.